Rất nhiều chị em thắc mắc, làm sao để biết một người phụ nữ bị vô sinh, kiểm tra hệ thống sinh sản thì sẽ khám những gì cụ thể để biết.
Kiểm tra những gì để phát hiện vô sinh
Để phát hiện vô sinh nữ giới cần kiểm tra những hạng mục sau:
– Xét nghiệm máu toàn bộ (CBC)
Xét nghiệm máu toàn bộ (CBC) hay xét nghiệm số lượng máu đầy đủ là xét nghiệm được sử dụng để đánh giá sức khỏe tổng thể, nhiễm trùng, thiếu máu và bệnh bạch cầu. Cụ thể, xét nghiệm để biết các tế bào máu đỏ mang ôxy; các tế bào máu trắng kháng viêm; hemoglobin, các protein vận chuyển ôxy trong các tế bào máu đỏ; hematocrit, tỷ lệ của các tế bào máu đỏ, thành phần chất lỏng, hoặc huyết tương trong máu; tiểu cầu giúp đông máu.
Gia tăng bất thường hoặc giảm số lượng tế bào cho biết số lượng máu toàn bộ. Đặc biệt, CBC còn được xem là xét nghiệm cơ bản cho nhóm vô sinh muốn thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Lý do thủ tục IVF đòi hỏi phải phẫu thuật nam khoa để lấy trứng nên bác sĩ cần biết các thông số về máu, nhất là nguy cơ thiếu máu.
– Xét nghiệm tỷ lệ hồng cầu lắng (ESR)
Xét nghiệm tỷ lệ hồng cầu lắng hay kiểm tra tốc độ SED là xét nghiệm máu để biết mức độ viêm nhiễm trong cơ thể. Xét nghiệm ESR không phải là một công cụ chẩn đoán độc lập, nhưng có thể giúp bác sĩ chẩn đoán sự tiến triển của một chứng bệnh viêm nhiễm. Mẫu máu chứa trong một chiếc ống, tế bào máu đỏ lắng xuống đáy. Nếu tốc độ lắng càng thì nguy cơ viêm nhiễm càng lớn.
Lý do, viêm nhiễm làm cho các tế bào liên kết lại, dày đặc hơn so với máu của người khỏe mạnh. Xét nghiệm này thường đo tốc độ lắng, đo khoảng cách các tế bào máu đỏ trong ống nghiệm trong vòng một giờ. Nó rất cần trong việc chẩn đoán vô sinh, thường được làm trước xét nghiệm hysterosalpinogogram (HSG), một thử nghiệm để chẩn đoán để kiểm tra vô sinh.
– Kiểm tra đường huyết
Đây là phương pháp kiểm tra lượng đường có trong máu hay còn gọi là đường huyết. Người ăn chay so với người ăn uống bình thường thường có lượng đường huyết khác nhau, nó có thể ảnh hưởng tới cơ hội mang thai của phụ nữ. Do đó, việc kiểm tra lượng đường trong máu là những tiêu chí quan trọng để biết nguy cơ vô sinh của người trong cuộc.
– Xét nghiệm VDRL
VDRL là xét nghiệm tìm kháng thể giang mai. Phản ứng dùng kháng nguyên chế từ tim bò, cho phản ứng với huyết thanh của người bệnh. Nếu kết tủa như bông là phản ứng dương tính do huyết thanh pha nhiều độ loãng khác nhau nên mức dương tính được thể thiện bằng ít hay nhiều các dấu cộng: +, ++, +++,… Phản ứng nhạy, dễ làm, nhưng đặc hiệu không cao.
Muốn có đặc hiệu cao phải dùng kháng nguyên là bản thân xoắn khuẩn Treponema (như phản ứng TPI, TPHA). Đây là sàng lọc khi khám sức khỏe để biết nguy cơ giang mai. Giang mai không ảnh hưởng đến khả năng sinh sản nhưng không được hỗ trợ điều trị có thể ảnh hưởng đến cả mẹ và thai nhi. Vì vậy, trước khi có thai, kiểm tra này là cần thiết và đưa vào thử nghiệm vô sinh.
– Rubella IgG
Xét nghiệm này xác định để biết nếu đang miễn dịch với virut Rubella thì không phải khám vô sinh nhưng hầu hết phụ nữ được miễn dịch với virut trước khi thụ thai. Nếu sản phụ mang virut trong 3 tháng đầu thai sẽ có nhiều nguy cơ ảnh hưởng tới thai nhi.
– Thử nghiệm vitamin B12 và D3
Biết được mức độ vitamin B12 hoặc folate là rất quan trọng để xác định nguy cơ thiếu máu, còn mức vitamin D3 lại có liên quan đến vô sinh ở phụ nữ.
– Xét nghiệm nội tiết tố tuyến giáp
T3, T4 tự do và kích thích tuyến giáp (TSH) là những loại nội tiết tuyến giáp nếu không nằm trong ngưỡng mong muốn thì rất có thể tuyến giáp đang hoạt động quá mức hoặc hoạt động kém chuyên , gọi là cường giáp và suy giáp. Rối loạn chức năng tuyến giáp có ảnh hưởng lớn đến quá trình rụng trứng và mang thai, vì vậy xét nghiệm này rất cần để biết nguy cơ gây vô sinh cũng như cho nhóm người mắc bệnh tuyến giáp muốn sinh con.
– Xét nghiệm nội tiết
Xét nghiệm nội tiết được thực hiện để khảo sát tình trạng hoạt động của buồng trứng cũng như khả năng dự trữ noãn. Ngoài ra, xét nghiệm nội tiết còn được dùng để theo dõi sự phát triển nang noãn và có rụng trứng, đặc biệt biết được mức độ nội tiết tố sinh sản, nguy cơ vô sinh gây ra do sự can thiệp trong quá trình rụng trứng hoặc dự trữ buồng trứng không phù hợp.